hành vi của trẻ
Với hành vi này của trẻ, nhiều cha mẹ lại tỏ ra thất vọng với những lời nói dối hơn là tìm hiểu điều gì phía sau những lời nói đó. Thay vì buộc tội hay đặt quá nhiều áp lực lên trẻ, nên khuyến khích và khen ngợi lời nói thật của con. Lời nói và hành xử nhẹ nhàng sẽ khiến trẻ cảm thấy được tin tưởng và luôn trung thực trong lời nói sau này của mình.
Vay Tien Online Me. 1. Quan niệm về hành vi bất thường của trẻ CPTTTThế nào là hành vi bất bình thường? đó là một vấn đề cần phải xác định thật rõ ràng và chính xác về mặt khoa học. Thực tế, đã có rất nhiều thay đổi về định nghĩa “hành vi bất bình thường”. Tuy nhiên các nhà tâm lý đã đưa ra một số giải thích về vấn đề này như sau Hành viđược xem là bất thường khi lệch khỏi mức trung bình. Đây là sự giải thích mang đậm màu sắc thống kê. Nhằm mục đích xác định tính bất bình thường, người ta chỉ cần quan sát những hành vi nào hiếm khi xảy ra trong một xã hội hay một nền văn hoá nhất định, rồi gán cho các trường hợp lệch khỏi chuẩn mực là bất bình thường. Định nghĩa này có thể đúng trong một số trường hợp nhưng nhìn chung nếu coi đó là một tiêu chí để xác định hành vi bất thường thì chưa hợp lý. Ví dụ, nếu tất cả mọi trẻ đều uống nước cam sau bữa ăn và có một trẻ nào đó lại thích uống chè thì không thể coi đó là bất thường được. Tương tự, một khái niệm như vậy về tình trạng bất thường sẽ gán ghép bất hợp lý một người có điểm số IQ cao lạ thường là người bất thường, đơn giản chỉ vì người này hiếm thấy về mặt thống Lệch khỏi mức lý tưởngTheo định nghĩa này, hành vi được xem là bất thường nếu như nó lệch khỏi một mức lý tưởng hay tiêu chuẩn nào đó. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay có quá ít tiêu chuẩn mà tất cả mọi người đều đồng lòng tán thành. Hơn nữa các tiêu chuẩn nổi bật lại thường biến đổi theo thời gian, khiến cho việc xác định khi nào thì lệch khỏi mức lý tưởng trở nên thiếu chính xác. Ngày nay con người thường đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn về mức độ lý tưởng, đặc biệt là các bậc cha mẹ, họ luôn đặt ra cho con mình những mức độ cần đạt được và tất cả những hành vi của trẻ khác với tiêu chuẩn mà họ đặt ra đều được coi là bất bình Bất thường là thiếu khả năng hành xử hữu hiệuHầu hết con người được sinh ra và lớn lên đều trở thành những thành viên hữu dụng trong xã hội, có đủ sức thích nghi với các nhu cầu của xã hội hoặc có khả năng hành xử hữu hiệu. Như vậy, với một một đứa trẻ được xem là có những hành vi bất thường khi nó không thể đáp ứng được những yêu cầu các nhà nghiên cứu về sự phát triển của trẻ CPTTT thì việc xác định những hành vi bất thường ở trẻ dựa trên những tiêu chí– Biểu hiện qua vận động của cơ thể– Biểu hiện bằng sự im lặng– Biểu hiện bằng âm thanh lời nóiHành vi bất thường ở trẻ CPTTT gồm 2 loạiHành vi hướng nội có nghĩa là trẻ sống thu mình, ít giao tiếp và đôi khi còn tự xâm hại cơ vi hướng ngoại hung hãn, có hành vi trái ngược, giảm chú ý và dễ kích quá trình phát triển ở trẻ CPTTT thường xuất hiện một số hành vi không bình thường. Những hành vi bất thường của trẻ không những đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của chính bản thân đứa trẻ mà còn là mối lo ngại thực sự đối với cha mẹ và các nhà sư phạm. Các nhà tâm lý-giáo dục đang hết sức quan tâm, họ đang cố gắng tìm ra những biện pháp điều chỉnh những hành vi của trẻ. Ở nước ngoài, vấn đề hành vi của trẻ được quan tâm rất sớm. Ở Trung Quốc, năm 1981 theo điều tra của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em Nam Kinh đối với các trẻ em sống tại Thành phố Nam Kinh, người ta đã phát hiện, trong trở ngại về hành vi của trẻ em, vấn đề ăn uống chiếm 36,1%, vấn đề về tinh thần chiếm 19,8%, dễ kích động chiếm 16,8%, khó khăn trong học tập và tập trung sự chú ý chiếm 11,4%. Ngoài ra còn một số trở ngại khác như tính hung hãn, sự co mình, rối loạn ngôn cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Các vấn đề về hành vi của trẻ em ngày nay đang được xã hội đặc biệt chú ý, nhất là đối tượng trẻ em chậm phát kỳ sơ sinh trẻ thường hay mút đầu ngón tay, lớn hơn một chút trẻ thường gặm móng tay, đó là những biểu hiện bình thường thuộc phản xạ bản năng nguyên thuỷ và trẻ sẽ mút bất cứ vật thể gì mà môi có thể chạm được, nhất là khi đói trẻ có thể cho tay của mình vào miệng, ước tính có khoảng 90% trẻ ấu thơ có biểu hiện trên và người ta cho rằng những hành vi này là bình thường. Khi trẻ được 2,3 tuổi, lứa tuổi có nhiều sự biến đổi về mặt tâm sinh lý như ngôn ngữ phát triển mạnh, năng lực sống độc lập tăng dần và những hiện tượng trên cũng dần dần biến mất. Nhưng một số trẻ vẫn duy trì loại hành vi này, khi đói khát hay trong tình trạng tinh thần rối loạn…trẻ không những mút ngón tay mà còn gặm bất cứ vật gì xung quanh như quần áo, những đồ dùng hằng ngày khác, từ đó dần dần hình thành thói quen và rất khó thay đổi, đôi khi trở thành một “dạng tật”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, ở một số trẻ khi có những hành vi như vậy đôi khi cũng là một cách làm cho trẻ cảm thấy thích thú, bớt căng thẳng hơn và thậm chí rất dễ vi bất thường ở trẻ còn biểu hiện ở chỗ trẻ luôn sống co mình, tránh giao tiếp với mọi người xung quanh. Đây là hiện tượng thường gặp ở lứa tuổi mẫu giáo và thường tăng lên theo độ tuổi. Phần lớn trẻ em đều có thể sống với nhau hoà đồng, nhưng có một số trẻ nhút nhát khi tiếp xúc với người khác, có biểu hiện co lại, sợ sệt ở những mức độ khác nhau. Trẻ có hành vi co lại thường rất khó thích nghi với hoàn cảnh mới, không muốn đến nơi lạ, sợ đi dạo trong công viên, đến rạp chiếu phim, theo cha mẹ đi chơi…Trẻ không chủ động trong giao tiếp với người khác nên có rất ít bạn bè cùng tuổi. Trẻ trở nên trầm mặc ít nói, sợ phải giao tiếp với người khác, trẻ không có đủ tự tin khi giải quyết công việc của mình, ngoài ra trẻ còn có những biểu hiện như không biết nhận sự giúp đỡ của người khác, không biết đón nhận lời khen cũng như vô cảm trước sự chê trách. Chính vì khó khăn trong giao tiếp nên trẻ rất khó có thể hiểu được người khác và ngược lại những hành vi bất thường của trẻ luôn làm cho mọi người xung quanh có cảm giác khó chịu, hoặc chê cười, và gần như không tin tưởng vào khả năng của vi kích động cũng là một trong những hành vi thường gặp ở trẻ có vấn đề sự rối loạn trong quá trình phát triển. Biểu hiện rõ nét nhất là trẻ lập tức gào thét và đập phá hoặc tự làm tổn hại đến thân thể của chính mình như đập đầu vào tường, bứt tóc, cào mặt… trẻ rất dễ nổi giận, đôi khi lại tỏ ra bướng bỉnh. Đối với những hành vi quá kích này thường đem lại những hậu quả đáng lo ngại, bởi vì trẻ không làm chủ được bản thân, không có ý thức về những hành vi của mình trẻ sẽ rất dễ bị tổn cả những biểu hiện về hành vi bất thường ở trẻ cần phải được điều chỉnh kịp thời và đòi hỏi phải có thời gian rèn luyện. Loại hành vi này nếu không được uốn nắn sẽ gây khó khăn nghiêm trọng cho việc thích ứng xã hội, nếu kéo dài có thể hình thành ở trẻ những hành vi bạo lực, hành vi có tính tiêu cực sẽ làm cho trẻ mất đi cơ hội phát triển, trở thành một người không trưởng biểu hiện hành vi có vấn đề thường thấy ở trẻ CPTTTHành vi bất thường của trẻ CPTTT được xác định dựa trên những tiêu chí sauBiểu hiện qua vận động các bộ phận cơ thể– Trẻ đi lại, ra vào tự do trong lớp– Khi không vừa ý, trẻ có thể đấm đá, xô đẩy hoặc ăn vạ.– Ngồi không yên, gật gù, lắc người, vận động tay chân liên tục– Trẻ có thể đạp phá đồ đạc khi chơi– Trẻ có thể vệ sinh không đúng nơi– Trẻ từ chối sự chăm sóc, vỗ về của người khác bằng cách lẩn hiện bằng sự im lặng– Trẻ ngồi uể oải, buồn chán, im lặng– Không nói chuyện với bạn bè, người xung quanh.– Không thực hiện nhiệm vụ– Không phản ứng lại thậm chí khi bị trêu trọcBiểu hiện bằng âm thanh, lời nói– Trẻ nói tự do trong giờ học.– Trẻ có thể la hét, gào thét không rõ nguyên nhân– Trẻ có thể lẩm bẩm một mình– Trẻ có thể khóc hoặc hờn dỗi2. Các biện pháp quản lý hành vi của trẻ Giúp trẻ hành thành và phát triển các hành vi trong mong muốnKhi đến lớp, trẻ học thêm được những hành vi tốt ngoài những gì chúng đã có từ trước. Đó có thể là những hành vi học tập, hành vi cá nhân và giao tiếp xã củng cố các hành vi tốt, giáo viên có thể sử dụng bất kì sự kiện nào có khả năng tăng cường hành vi vừa xảy ra. Có thể sử dụng cố tích cực, nghĩa là giáo viên hay bạn bè thể hiện sự hài lòng và vui vẻ khi trẻ thực hiện được một hành vi thích hợp. Củng cố tích cực có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau như khen ngợi, phần thưởng cụ thể, hay dành cho trẻ một hoạt động mà trẻ thích hoặc có những ưu tiên đặc biệt. Củng cố tiêu cực là loại bỏ hoặc không bắt trẻ làm điều gì chúng cảm thấy khó chịu hoặc không yêu thích khi chúng thực hiện được một hành vi phù hợp, ví dụ trẻ đồng ý vào nhà tắm để tắm sau đó trẻ không phải uống thuốc. Củng cố là hình thức được chấp nhận rộng rãi và là một chiến thuật có hiệu quả trong việc tăng cường các hành vi phù hợp mà ta mong đợi ở sử dụng củng cố tích cực để tăng cường các hành vi phù hợp của trẻ giáo viên phải chú ý làm sao để trẻ cảm thấy thích nhân tố củng cố và hiểu rằng cái mình nhận được là kết quả của hành vi mà mình vừa thực hiện, và mình sẽ sớm nhận được nó sau khi thực hiện đúng điều giáo viên yêu trong những cách sử dụng nguyên tắc củng cố tích cực là dùng một văn bản gọi là “Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh”, cách này đặc biệt phù hợp đối với những trẻ lớn. Giáo viên và học sinh cùng thảo một bản thoả thuận, trong đó giáo viên nói rõ các hành vi hay nhiệm vụ và học sinh mà trẻ phải hoàn thành hoặc thực hiện được và những phản hồi sự củng cố giáo viên sẽ đưa ra. Việc thực hiện bản thoả thuận này là bắt buộc đối với giáo viên và học Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh Biên bản thoả thuận Ngày ………. tháng ……….. năm …………Em ……………………………………… tên của học sinh sẽ thực hiện những điều sau đây;1. Đi học đúng Hoàn thành tất cả các bài tập được giao ở Khi muốn được giúp đỡ phải giơ tay để thu hút sự chú ý của thầy/cô giáo ……………………….. tên của giáo viên sẽ có những hình thức củng cố dưới đây;1. Nếu em hoàn thành1 trong 03 điều trên, em sẽ nhận được 10 sao. Sao thưởng cho việc hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất sẽ được giao lúc đầu giờ học. Sao thưởng cho viện hoàn thành nhiệm vụ thứ 2 và thứ 3 sẽ được giao lúc cuối buổi Các sao có thể được dùng để đổi lấy một hoạt động ưa thích vào chiều thứ sau. Chữ ký của học sinh Chữ ký của giáo viên ……………………………… ………………………………Một số gợi ý cho kỹ thuật củng cố• Xác định xem cái gì có giá trị củng cố thực sự đối với trẻ• Chọn những hình thức củng cố dễ thực hiện và thực tế trong điều kiện của lớp học• Nắm bắt ngay thời điểm trẻ có hành vi thích hợp rồi khen hoặc củng cố ngay• Sử dụng một số kỹ thuật củng cố để dần dần hướng cho hành vi của trẻ giống với hành vi mẫu• Khuyến khích trẻ khác cùng lớp để cho trẻ thấy rằng một số hành vi tích cực sẽ dẫn đến kết quả đáng khích lệ được thưởng. Giảm thiểu hành vi không mong muốn của trẻHầu hết các giáo viên đều sẽ gặp phải những hành vi không mong muốn ở trẻ. Để xử lí những hành vi này giáo viên cần chú ý đến nguyên tắc “tối thiểu hoá sự can thiệp”.Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các hành vi gây rối được loại trừ nhanh gọn mà các hoạt động của lớp học ít bị ảnh hưởng Phòng ngừa và nhắc nhởGiáo viên có thể sử dụng các cách khác nhau để phòng ngừa hoặc nhắc trẻ không có hành vi sai phạm như– Đứng gần những trẻ hay gây rối;– Nhẹ nhàng chạm tay vào vai trẻ để báo hiệu cho trẻ rằng mình biết là trẻ đang có hành vi không thích hợp;– Sử dụng các cử chỉ thể hiện trực tiếp hoặc không trực tiếp sự không hài lòng của mình với trẻ để ngăn chặn các hành vi không mong muốn, ví dụ như chỉ tay, lắc đầu, hoặc những dấu hiệu khác;– Đưa mắt nhìn trẻ có hành vi không thích hợp, duy trì trong một khoảng thời gian nhất định;– Nếu đang nói thì dừng lại trong một khoảng thời gian nhất định để thu hút sự chú ý của trẻ;– Gọi tên những trẻ không tập trung, và đặt câu hỏi mà trẻ có thể trả lời được, hoặc dùng tên của trẻ để minh hoạ cho những điều đang nói đến trong bài học;– Nên vui vẻ, hài hước khi nhắc nhở và chấn chỉnh những hành vi không thích hợp. Nói chung, giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau để nhắc học sinh, nhưng hãy bắt đầu bằng những biện pháp can thiệp ít mang tính xâm phạm nhất. Tuy nhiên, việc lựa chon hình thức nào còn phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi do trẻ gây Một số cách xử lí khi trẻ có hành vi gây rối* Khi trẻ có hành vi gây rối nhưng mức độ không nghiêm trọng, giáo viên có thể xử lí theo những cách dưới đây Dập tắt là giáo viên không củng cố một hành vi nào đó. Dần dần, với việc không củng cố hành vi đó, kết hợp với củng cố tích cực cho các hành vi mong muốn có liên quan, giáo viên sẽ giúp trẻ laọi bỏ được các hành vi không thích hợp. Ví dụ trẻ có mọt hành vi không hợp lý nào đó nhằm thu hút sự chú ý của giáo viên, giáo viên không nên tỏ ra chú ý đến hành vi đó. Trong một số tình huống, giáo viên nên để các trẻ khác trong lớp cùng tham gia quá trình dập tắt hành trách là giáo viên dùng lời để trách trẻ. Khi áp dụng hình phạt này cần lưu ý không để việc khiển trách chiếm ưu thế trong mối quan hệ qua lại với trẻ, nhìn vào học sinh và nói với thái độ bình tĩnh, không đứng từ xa để khiển trách học sinh, nên tiến lại gần trẻ và duy trì một mức độ gần nhất định. Cần để trẻ biết rõ tại sao lại bị khiển trách và giúp trẻ hiểu rằng chúng bị khiển trách về hành vi chứ không phải là cả bản thân là sự lựa chọn cuối cùng bởi vì nó liên quan đến việc đưa ra một điều không ưu thích cho trẻ hoặc lấy đi một điều gì đó trẻ ưu thích, coi như là hậu quả của một hành vi không thích hợp. Trong nhiều trường hợp giáo viên phải xem xét việc sử dụng phương pháp này bởi cách thức phạt khác nhau có thể giúp loại bỏ ngay lập tức một hành vi không mong muốn nào đó. Có thể phạt học sinh theo ba cách thông thường như khiển trách, thời gian tách biệt, và trẻ giá hành vi. Để có thể phát huy tác động của các hình thức phạt này, giáo viên phải áp dụng chúng ngay sau khi học sinh thể hiện hành vi không thích hợp và giúp chúng hiểu được tại sao mình lại bị phạt. Có thể phạt theo các mức độ sau nhân quả, thời gian tách biệt, trả giá hành vi.– Nhân quả cách này áp dụng trong những tính huống khi có sự phù hợp logic giữa các hành vi trẻ gây nên với hậu quả mà trẻ phải chịu. Cách làm này giúp trẻ và thanh thiếu niên CPTTT có ý thức trách nhiệm hơn đối với các hành vi của mình. Ví dụ nếu trẻ quên không đem hộp bút mầu thì hậu quả tự nhiên là trẻ không được tham gia vào hoạt động, nếu trẻ quên mang thước kẻ trẻ sẽ phải đi mượn một bạn khác.– Thời gian tách biệt là trẻ không được tham gia vào một hoạt động nào đó mà ở đó trẻ thường nhận được củng cố tích cực. Điều này có nghĩa là khi bị phạt bằng thời gian tách biệt, trẻ sẽ không được thưởng thức một cái gì đó mà trẻ yêu thích. Có nhiều cách phạt bằng thời gian tách biệt như trẻ phải ngồi tách ra song vẫn được quan sát hoạt động đó, trẻ bị tách hoàn toàn ra khỏi hoạt động, trẻ bị nhốt trong một phòng riêng. Khi áp dụng hình thức phạt này giáo viên cần lưu ýChắc chắn rằng trẻ yêu thích hoạt động đang tiến hành, nếu không cách phạt này sẽ không còn tác dụng như một hình phạt mà thậm chí có thể trở thành một dạng củng cố tiêu bảo địa điểm phạt không có những yếu tố mang tính củng cố, nếu không, hình phạt này mất tác phạt trẻ quá lâu hoặc phạt một cách thường xuyên vì trẻ sẽ bị bỏ lỡ nhiều phần kiến thức quan xem xét việc sử dụng phương pháp phạt này sau khi đã cảnh cáo trẻ về khả năng có thể bị phạt bằng thời gian tách hiệu cho trẻ biết khi thời gian phạt đã trẻ được phép tham gia trở lại hoạt động với cả lớp hay cả nhóm, hỏi trẻ xem trẻ có biết lý do tại sao mình lại bị phạt không, nếu trẻ trả lời không, hãy giải thích lí do trẻ vào một thời điểm thích hợp mà không làm ảnh hưởng đến bài nên áp dụng hình thức phạt này với những trẻ có tính nhạy cảm caoKhi cần nên thông báo và xin phép nhà trường để được áp dụng hình thức này.– Trả giá hành vi là lấy đi của trẻ một cái gì đó mà trẻ yêu thích chẳng hạn như điểm thi đua hoặc một ưu điểm nào đó. Khi áp dụng phương pháp này phải lưu ýGiải thích rõ cho trẻ biết nội dung của hình thức phạt là gì và mỗi lần phạt như vậy trẻ sẽ bị lấy đi những hợp hình thức phạt theo kiểu này với một hình thức củng cố nào đó. Đảm bảo rằng những quyền lợi bị tước mất là thực sự mang tính củng cố đối với trường hợp sau khi bị phạt, trẻ không còn hoặc còn rất ít yếu tố thúc đẩy để đưa ra các hành vi đúng cố khi có sự giảm bớt tính thường xuyên của một hành vi không mong muốnGiáo viên nên củng cố thích hợp khi trẻ đạt được một tiêu chí nào đó về tần số của một hành vi nhất định, cho dù hành vi đó là hành vi không mong muốn. Với cách xử lí này, giáo viên cần giúp học sinh giảm các hành vi không mong muốn cả về tần số và thời dụ một trẻ AD/HD thường hay ngắt lời khi bạn đang phát biểu, hôm nay em ít ngắt lời các bạn hơn vì vậy em nhận được củng cố tích cực. Giáo viên có thể khen trẻ khi trong một thời gian nhất định trẻ chỉ vi phạm có 5 lần chứ không phải 10 lần như mọi khi, giáo viên có thể nói “Con giỏi lắm, hôm nay con rất chăm chú lắng nghe các bạn phát biểu”. Thực tế hành vi gây rối của trẻ vẫn còn và phải được châm chước cho đến tận khi trẻ đạt được hành vi chuẩn. Giáo viên phải tăng dần yêu cầu đối với trẻ khi thấy chúng đã đạt được sự ổn định về hành vi so với yêu cầu hiện tại* Trong trường hợp xảy ra những hành vi nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như tranh giành đồ dùng của bạn, trêu chọc bạn, chửi thề, giận dữ, đe dọa bạn… giáo viên cần sử dụng những biện pháp quản lý hành vi ở mức độ cao xác định một hành vi là nghiêm trọng giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm mức độ và độ thường xuyên của hành vi đó. Đánh giá chính xác là cơ sở để tìm ra những biện pháp xử lý hiệu quả và tích cực. Giáo viên có thể đánh giá trẻ nhằm tìm ra các yếu tố tiền hành vi dẫn đến hành vi, các yếu tố hậu hành vi hậu quả của hành vi và yếu tố duy trì hành hành vi có vấn đề xảy ra nhằm phục vụ một nhu cầu, hay ý định cụ thể nào đó của trẻ, nghĩa là hành vi đó như một phương pháp hay giao tiếp của trẻ với môi thể khái quát thành bốn dạng hành vi sau– Gây chú ý trẻ gây ra hành vi ấy là để thu hút sự chú ý của người khác– Trốn chạy nhờ có hành vi ấy mà trẻ sẽ thoát khỏi một tình huống nó không thích, ví dụ như trẻ tự kỷ có gắng thoát khỏi một hoạt động tập thể nào đó bằng cách nổi cơn giận dữ, khiến giáo viên phải phạt trẻ bằng thời gian tách biệt.– Đạt được một cái gì đó rất cụ thể hành vi của trẻ dẫn đến giáo viên sẽ thưởng cho trẻ một đồ vật hay hoạt động nào đó, ví dụ trẻ bắt đầu hét lên cho đến lúc nó lấy được đồ dùng giảng dạy của giáo viên mà nó muốn.– Phản hồi bằng các giác quan hành vi của trẻ nhằm đạt được những kích thích về thính giác, thị giác, hoặc xúc giác cho bản viên có thể sử dụng bảng quan sát để xác định chính xác mục đích của hànhvi. Bảng này gồm yếu tố tiền hành vi A, hành vi B, hậu hành vi CBảng quan sát hành viNgoài ra giáo viên còn có thể sử dụng bảng giao tiếp chức năng dưới đây để tìm cách phản ứng hợp lý với trẻBảng Bảng giao tiếp chức năngThực tế cho thấy nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi có vấn đền là rất rộng, đa dạng và đặc biệt như chính bản thân mỗi trẻ; do vậy xác định chức năng của từng hành vi là rất khó khăn. Để có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân của các hành vi có vấn đề ở trẻ, các chuyên gia và giáo viên cần theo dõi những yếu tố có thể dẫn đến hành vi có vấn đề một cách hệ xác định được chức năng của một hành vi gây rối nào đó, giáo viên cần cung cấp và hướng dẫn cho trẻ phương pháp giao tiếp thích hợp hơn để thực hiện cùng một ý muốn. Giáo viên có thể đưa ra những quyển vốc dán các tranh biểu tượng để giúp trẻ không có khả năng giao tiếp bằng lời thể hiện nhu cầu của mình, ví dụ khi trẻ muốn ra ngoài em không phải tự đánh vào đầu mình nữa mà có thể chỉ vào tranh để thể hiện mình muốn ra tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến những hành vi không mong muốn là rất đa dạng và phức tạp như chính bản thân mỗi trẻ, do vậy xác định chức năng của từng hành vi là rất khó khăn. Để ngăn chặn và giảm thiểu hành vi có vấn đề, giáo viên cần theo dõi những yếu tố có thể dẫn đến các hành vi đó một cách có hệ thống. Đánh giá chính xác nguyên nhân dẫn dến hành vi là cơ sở để giáo viên có biện pháp phòng ngừa và xử lý hành vi của trẻ hiệu quả và tích lại Giáo viên có thể lựa chọn nhiều biện pháp khác nhau để xử lý hành vi không mong muốn của trẻ nhưng hãy bắt đầu bằng những biện pháp xử lý nhẹ nhất. Mặt khác, việc lựa chọn biện pháp xử lý nào phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi do trẻ gây ra. Mục tiêu cuối cùng là dạy trẻ kiểm soát được các hành vi của mình mà không cần hoặc cần ít nhất sự hỗ trợ từ phía bên ngoài, từ đó giúp cho trẻ sống độc lập ở mức cao nhất và hòa nhập được với cộng Các hành vi xã hội và giới tính không phù hợpĐây là nhóm hành vi có vấn đề liên quan đến giao tiếp xã hội và giới tính. Những hành vi này phản ánh mối quan hệ thân thiện của trẻ với người khác, các quan hệ của trẻ trong cộng đồng, khả năng trẻ phân biệt các hành vi riêng tư và các hành vi xã hội, khả năng trẻ tránh bị quấy rối và lạm dụng về giới vi giao tiếp xã hội không phù hợp của trẻ có thể là ôm người khác mà không phân biệt đối tượng hoặc chưa biết giữ khoảng cách cơ thể hợp lý, ví dụ như trẻ khoác vai bạn khác giới như người yêu. Giáo viên sẽ dạy cho trẻ cách phân biệt mối quan hệ khác nhau và nhận biết cụ thể trong tình huống nào thì sử dụng lời nói và cử chỉ phù hợp, ví dụ như khi nào thì chào, bắt tay, ôm hôn tạm biệt,…Nhiều trẻ không nhận ra và tôn trọng ranh giới cá nhân, chúng có thể tự nhiên chạm vào những phần kín trên cơ thể người khác. Trong trường hợp này có thể dạy trẻ nhận biết những ranh giới cá nhân qua việc sử dụng ký hiệu viên có thể sử dụng ký hiệu màu trên quần áo hoặc hình mẫu để giúp trẻ biết rõ “vùng” nào trên cơ thể người khác được phép và không được phép chạm vào. Ví dụ như dùng đề can có biểu tượng một khuôn mặt cười dán lên vùng được phép chạm vào, một đề can có gạch chéo màu đỏ dán lên vùng không được phép chạm số trẻ khác thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát các cảm xúc giới tính của mình, ví như cởi bỏ quần áo. Xúc cảm giới tính của trẻ là tự nhiên nhưng trẻ cần giúp đỡ để hiểu rằng trường học và nơi công cộng không phải là nơi phù hợp cho các hoạt động giới giúp trẻ CPTTT ở tuổi vị thành niên tránh bị quấy rối hoặc bị lạm dụng về giới tính, cần phải dạy cho các em biết những kỹ năng phòng tránh bằng cách nói “không, tôi không muốn như vậy”, “Hãy đi đi”, “Tôi sẽ mách mẹ hoặc thầy cô giáo”.Để có thể lập một kế hoạch giáo dục giới tính phù hợp là rất khó, nó đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ với gia đình nhằm tôn trọng các giá trị của gia đình và quyết định xem thông tin nào là quan trọng nhất đối với trẻ. Theo “Đại cương về giáo dục trẻ CPTTT” của tiến sĩ Huỳnh Thị Thu Hằng
Các hành vi tự hại ở trẻ vị thành niên đang gây ra sự chú ý và quan tâm ngày càng tăng trên toàn thế giới.. Cá nhân thường bắt đầu thực hiện hành vi tự hại vào giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, từ 12 đến 14 tuổi thường liên quan đến việc cắt hoặc khắc lên da [1]. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra hành vi tự hại cũng có thể bắt đầu khi trẻ dưới 12 tuổi hoặc trên 14 tuổi [1,2] và họ có thể duy trì hành vi tự hại cho đến tuổi trưởng thành [3].Một số nghiên cứu đã báo cáo hành vi tự hại có thể xuất hiện trong một loạt các rối loạn, chẳng hạn như rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn phân ly, rối loạn hành vi, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn bùng nổ gián đoạn, rối loạn lo âu, rối loạn khí sắc, rối loạn sử dụng chất kích thích, rối loạn ăn uống và rối loạn nhân cách ranh giới. Tuy nhiên không phải tất cả các nghiên cứu đều đưa ra bằng chứng xác nhận mối liên quan giữa hành vi tự hại và rối loạn tâm thần [1-5].1. Hành vi tự hại là gì?Hành vi tự hại non-suicidal self-injury là hiện tượng tự gây thương tích cho bản thân, ám chỉ một hành vi hủy hoại trực tiếp và có chủ ý của một cá nhân với chính bản thân mình. Tuy nhiên, hành vi này không đồng nghĩa với việc họ có ý định tự tử/ tự sát. Hành vi tự hại có thể thay đổi từ mức độ nhẹ ví dụ như tần suất thấp và tổn hại nhẹ như là trầy xước, trung bình ví dụ như tần suất thường xuyên và tổn hại hơn, có thể cần chăm sóc y tế đến nặng ví dụ như tần suất dày đặc hơn, chấn thương nặng và suy yếu [1,3,6].2. Mối liên hệ giữa hành vi tự hại và hành vi tự tử/ tự sátNghiên cứu cho thấy rằng hành vi tự hại là có thể yếu tố dự báo mạnh mẽ về những nỗ lực tự sát trong tương lai của một cá nhân [7,8]. Tuy những người cố gắng thực hiện hành vi tự sát có điểm số cao hơn trong các thang đo về lo âu, trầm cảm và các ý tưởng tự tử so với những người thực hiện những hành vi tự hại [6,7]. Nghiên cứu nhận thấy nếu hành vi tự hại được thực hiện một cách thường xuyên và lâu dài, có thể dẫn tới nỗ lực tự sát ở cá nhân [9]. Điều này cho thấy, mặc dù hành vi tự hại có thể không trực tiếp dẫn đến nỗ lực tự sát, nhưng cũng không loại trừ khả năng hành vi tự hại có thể trở thành nguy cơ cho hành vi tự tử trong tương lai [7-9].Sự khác biệt rõ ràng giữa hành vi tự hại và hành vi tự sát là trong khi hành vi tự hại có thể được sử dụng như một cách thức không phù hợp để họ đối phó với vấn đề gặp phải như căng thẳng tâm lý, nhằm điều chỉnh cảm xúc. Hành vi tự sát thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống của một người [5],[10].3. Tiêu chí chẩn đoán theo DSM-5Theo Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ [11], liệt kê hành vi tự hại là một chẩn đoán riêng biệt, trong khi các phiên bản trước của Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ - viết tắt là DSM chỉ bao gồm hành vi tự hại như một triệu chứng của rối loạn nhân cách ranh giới chứ không phải là một chẩn đoán riêng biệt [12]. Quy định giữa các tiêu chí về hành vi tự tử và hành vi tự hại là rất quan trọng trong việc chẩn đoán phân loại rối loạn để có liệu trình can thiệp phù DSM-V, để đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán hành vi tự hại, một người phải cố ý tự gây thương tích cho bề mặt cơ thể từ 5 ngày trở lên mà không có ý định tự tử/ tự sát trong năm qua [3,11]. Hành vi tự hại phải gắn liền với một trong các tiêu chí sau [3,11]Cá nhân có hành vi tự hại kỳ vọng được giải thoát khỏi cảm xúc tiêu cực, giải quyết vấn đề cá nhân, tạo ra các cảm xúc tích vi tự làm tổn thương gắn với một trong các tình huốngcá nhân trải qua các cảm xúc tiêu cực trước khi có hành vi;cá nhân chuẩn bị cho hành vi cẩn thận trước khi hành vi diễn ra;cá nhân nghĩ nhiều tới hành vi này ngay cả khi nó không diễn quan trọng đối với hành vi đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán của hành vi tự hại là hành vi không được xã hội chấp vi tự hại thường dẫn đến đau khổ đáng kể cho cuộc sống của cá nhân đó. Hành vi hoặc hậu quả của nó có thể gây căng thẳng đáng kể với cuộc sống thường nhật của cá ra, hành vi tự hại không diễn ra trong giai đoạn loạn thần, mê sảng, say chất, hoặc cai nghiện chất, hành vi không thể được giải thích bởi các tình trạng bệnh lý Phân loại các biểu hiện hành vi tự hạiCác hành vi gián tiếp Việc uống nhiều rượu, ăn thức ăn nhiều chất béo, hút thuốc lá,..những hành vi này thường không được thực hiện với mục đích gây tổn hại cho bản thân, mà thay vào đó được thực hiện vì chúng mang lại niềm vui, sự thích thú tạm thời và hậu quả gây ra là tác dụng phụ gián tiếp và ngoài ý muốn. Những hành vi như vậy thường không được gọi là tự gây thương tích hoặc tự làm hại bản thân, mà là hành vi gián tiếp tự gây tổn hại cho bản thân, tự đánh bại bản thân hoặc hành vi không lành mạnh [6]. Ngoài ra, văn hóa, dân tộc, bối cảnh sinh sống có thể tác động đến việc lựa chọn hình thức thực hiện này, chẳng hạn như hành vi tự gây thương tích có chủ ý sẽ được che giấu bằng cách thực hiện các hình thức được văn hóa họ sống chấp nhận ví dụ xăm hình, đeo khuyên.. [1,2].Các hành vi trực tiếp Cắt da/ rạch tay là loại phổ biến nhất trong các hành vi tự hại. Ngoài ra, các hình thức khác bao gồm chà xát, cắn, đốt, cào, đập hoặc đánh vào các bộ phận cơ thể và ngăn chặn việc chữa lành vết thương [4].5. Tại sao cá nhân lại thực hiện hành vi tự hại?Các yếu tố giải thích cho sự hình thành của các hành vi tự hại có thể được chia thành hai loại chính cá nhân và môi trường [1,6]. Một vài yếu tố cụ thể sẽ được nói đến dưới đâya Các yếu tố cá nhânGiải tỏa căng thẳng/ cảm xúc tiêu cực/ sự khó chịu Tuổi thành niên là một giai đoạn phát triển dễ bị tổn thương khi cá nhân đối mặt với nhiều thay đổi lớn trong cuộc sống ví dụ họ phải tập quen với cách sống tự lập, tự chủ, tự quyết định những sự việc liên quan đến mình, những thách thức trong quá trình học tập, căng thẳng điểm số hay những tình huống bất ngờ đòi hỏi họ phải có kỹ năng giải quyết vấn đề khi họ chưa đủ năng lực cũng như kinh nghiệm để xoay sở....Vì vậy, trải qua những thay đổi xảy ra có thể dẫn đến nhiều căng thẳng cho cá nhân, ví dụ họ đang dần chuyển từ sự phụ thuộc vào cha mẹ sang sự độc lập tương đối, điều này đòi hỏi nhiều khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống. Thời điểm chuyển đổi này được đánh dấu bằng sự thay đổi đáng kể trong việc tự đảm đương trách nhiệm cao và quyết định tự lựa chọn có thể dẫn đến cả sự thỏa mãn cũng như căng thẳng. Vì thế, căng thẳng có thể sẽ xảy ra khi các nhu cầu về tinh thần, cảm xúc và / hoặc thể chất vượt quá khả năng điều tiết của cơ thể [3].Trước khi thực hiện hành vi tự hại là một loạt sự gia tăng cảm giác như tức giận, căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, phiền muộn và cảm giác “đau khổ” nói chung hoặc cảm giác đau đớn, ràng buộc mà người đó cảm thấy họ không thể thoát khỏi hoặc kiểm soát được [11]. Thực hiện hành vi hại có thể được sử dụng như một cách để giải phóng tạm thời những cảm xúc đau buồn này. Tuy nhiên, bất chấp cảm giác giải tỏa ngắn hạn này, hành vi này sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực lâu dài hơn [6, 11,12].Khả năng kiểm soát Một số nghiên cứu mô tả cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cơ chế đối phó có thể gọi là phương tiện để họ kiểm soát vấn đề, giúp họ giải quyết vấn đề giữa các cá nhân hay để giảm bớt những khó khăn trong nội tâm; vết thương làm mất tập trung khỏi các tình huống thực tế đang đau đớn về cảm xúc, nỗi đau thể chất sẽ tạm thời thay thế cho nỗi đau tinh thần tại thời điểm đó của họ [1]. Ngoài ra, thói quen và sự lặp lại hành vi tự hại này có thể được coi là rối loạn kiểm soát xung động Impulse Control Disorders hội chứng tự cắt xén lặp đi lặp lại [1].Tự trừng phạt bản thân Cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cách để tự trừng phạt bản thân có thể làm thu hút sự chú ý và khiến người khác cảm thấy tội lỗi. Ngoài ra, người sử dụng hành vi tự hại của mình theo động lực này có thể nhằm mục đích ràng buộc mối quan hệ gắn bó với một cá nhân nào đó [11].Để “cảm nhận” điều gì đó Một yếu tố khác có thể đóng góp vào hành vi tự hại đó là để khơi gợi cảm xúc ''để cảm nhận điều gì đó bởi vì thanh thiếu niên đang cảm thấy tê liệt hoặc trống rỗng''. Những cá nhân này muốn cảm thấy điều gì đó, ngay cả khi cảm giác đó là đau đớn. Việc thực hiện hành vi tự hại để cảm nhận những cảm giác tích cực chẳng hạn như sự hài lòng, niềm vui hay sự phấn khích. Nghiên cứu giả thuyết rằng thực hiện hành vi tự hại sẽ dẫn đến giải phóng opiate nội sinh tham gia vào các cơ chế giảm đau để phản ứng với tổn thương mô, tạo ra cảm giác hưng phấn [4].Khả năng khơi gợi những cảm giác này có xu hướng củng cố hoặc thúc đẩy hành vi tự hại. Nhìn thấy máu trong khi thực hiện hành vi tự hại có thể là một khía cạnh củng cố của hành vi này vì người ta báo cáo rằng nhìn thấy máu giúp thanh thiếu niên cảm thấy chân thực và tập trung vào vết thương thể chất hơn là vết thương tinh thần [3].Tìm kiếm sự giúp đỡ Theo thông tin đã được cập nhật từ các nghiên cứu, hành vi tự hại đề cập đến hành vi trong đó các cá nhân khiến người khác tin rằng họ có ý định chết vì hành vi của mình khi họ thực sự không có ý định làm như vậy. Mục đích của hành vi này có thể là để giải tỏa với sự căng thẳng và / hoặc để tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác [6].b Các yếu tố môi trườngNgược đãi/ lạm dụng thời thơ ấu Hầu hết thanh thiếu niên sẽ có đầy đủ cơ chế đối phó để xử lý các thay đổi trong cuộc sống thay đổi của họ và có thể chuyển tiếp qua giai đoạn phát triển này một cách lành mạnh và tích cực. Tuy nhiên, nhiều yếu tố bên ngoài ví dụ trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi, cách thực hành nuôi dạy con kém của người chăm sóc và ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè,... và các yếu tố bên trong ví dụ rối loạn điều hòa cảm xúc và tâm lý căng thẳng có thể khiến thanh thiếu niên có nguy cơ thực hiện hành vi tự hại. Ví dụ thanh thiếu niên trải qua những trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi có nhiều nguy cơ phát triển biến dạng nhận thức có thể dẫn đến việc thực hiện các hành vi tự hại [2],[3]. Nghịch cảnh thơ ấu nghiêm trọng có liên quan đến rối loạn tâm thần, dẫn đến các hành vi tự hại nghiêm trọng hoặc thường xuyên hơn [3].Nhiều nghiên cứu tập trung vào trải nghiệm sang chấn thời thơ ấu cho thấy rằng các hành vi ngược đãi thời thơ ấu là một yếu tố rủi ro của hành vi tự hại ở thanh thiếu niên và sinh viên đại học [3,5]. Đặc biệt, trong số đó, việc bị lạm dụng cho thấy một mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của hành vi tự hại . Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò của mối quan hệ với cha mẹ và người chăm sóc trong nguyên nhân và sự phát triển của các hành vi tự hại. Ví dụ nghiên cứu cho thấy sự gắn bó không an toàn với cha mẹ là những yếu tố rủi ro về thực hiện hành vi tự hại ở cả phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, hành vi tự hại ở nam giới được dự đoán chính xác hơn bởi sự xa cách thời thơ ấu với cha [1].Trốn thoát khỏi các ký ức gây sang chấn Tiền sử bị lạm dụng/ ngược đãi thời thơ ấu và trải nghiệm cuộc sống căng thẳng có thể là những yếu tố rủi ro của tình trạng dễ bị tổn thương ở một cá nhân. Do đó, việc tránh né, muốn xóa bỏ các ký ức được khơi dậy có thể là mục tiêu khiến họ thực hiện hành vi tự hại [1]. Ngoài ra, cha mẹ có bệnh tâm thần và các rối loạn tâm lý, tiền sử gia đình có người thực hiện hành vi tự tử, gia đình tan vỡ, trải nghiệm mất mát, bất hòa trong gia đình… cũng có thể là các yếu tố rủi ro khiến họ thực hiện hành vi tự hại [2].Môi trường giáo dục không lành mạnh/ không thuận lợi cho sự phát triển cá nhân Không được đi học, không hài lòng với việc học hoặc gặp khó khăn trong học tập, bị bạn bè cô lập, bắt nạt,…có thể dẫn đến việc thanh thiếu niên không có nhiều cơ hội hòa nhập với mọi người xung quanh [2]. Người thực hiện hành vi tự hại có thể sử dụng hành vi này như một cách thức để bạn bè đồng trang lứa cảm thấy tội lỗi khi bắt nạt và bạo lực với họ ví dụ như bạo lực học đường hoặc các nhiệm vụ mà họ bắt cá nhân này tuân theo… [5].Thanh thiếu niên thực hiện hành vi tự hại có nhiều khả năng thực hiện những hành vi rủi ro khác như lạm dụng chất kích thích, hành vi tình dục nguy cơ và thói quen ăn uống không hợp lý [1]. Những người trưởng thành có tiền sử thực hiện hành vi tự hại đã bày tỏ thái độ tiêu cực đối với cơ thể và mức độ chăm sóc cơ thể thấp hơn [1]. Cá nhân thực hiện hành vi tự hại có thể bị tổn thương thể chất lâu dài và có nguy cơ tử vong cao hơn do tự tử/ tự sát [11-13]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu lớn cũng chỉ ra rằng nam giới và phụ nữ điều chỉnh cảm xúc của họ theo những cách khác nhau [12]. Bên cạnh việc nữ giới cũng thường có xu hướng thực hiện hành vi tự hại hơn nam giới, sự khác biệt giới còn được nhìn thấy trong các phương pháp được cá nhân sử dụng. Trong đó, phương thức tự cắt phổ biến ở nữ giới [2] và các phương thức tự đánh đập và tự làm bỏng là phổ biến nhất ở nam giới [2,12]. Ngoài ra, nam giới có nhiều khả năng thực hiện hành vi tự hại vì lý do xã hội và nữ giới thực hiện hành vi này phần lớn để giảm bớt trạng thái cảm xúc tiêu cực và tự trừng phạt bản thân [1]. Hơn nữa, có ý kiến cho rằng sự khác biệt giới sẽ tồn tại hoặc thể hiện rõ rệt hơn ở trẻ nhỏ hơn [12-14]. Vì vậy, sự khác biệt giới cũng có thể tác động đến phương thức cá nhân sử dụng cũng như các động lực hình thành hành vi tự hại ở mỗi cá nhân sẽ dẫn đến nguy cơ tự tử về sau cao hơn hay thấp hơn [5,11]. Nguy cơ tự tử gia tăng này bắt nguồn từ thói quen cảm nhận cảm giác đau đớn theo thời gian, giảm cảm nhận đau đớn và giảm sợ hãi đối với các rào cản tự tử vì sợ đau [3,5]. Dấu hiệu nhận biết hành vi tự hạiNhững hành vi tự hại nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời có thể để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, thậm chí là tính mạng của cá nhân người thực hiện hành vi tự hại. Việc xác định các dấu hiệu là điều cần thiết để cá nhân có thể nhận được những sự giúp đỡ phù hợp và kịp thời. Sau đây là một số dấu hiệu tham khảo [2,5,10]Xuất hiện nhiều dấu hiệu tự hại trên cơ thể thường xuyên có vết cắt, vết bỏng, vết bầm tím hoặc sẹo ở cánh tay, đùi trong......Che giấu các vật dụng tiềm ẩn gây nguy hiểm trữ các vật sắc nhọn hoặc dụng cụ cắt trong người mà không có lý do rõ ràng như lưỡi dao lam, kim tiêm, mảnh thủy tinh, hộp quẹt,...Thường mặc các trang phục kín đáo với mục đích che kín cơ thể ví dụ hay ăn mặc không phù hợp với thời tiết tức là hay mặc áo tay dài, quần dài, cổ áo cao,…ngay cả trong thời tiết nóng bức. Ngoài ra, trên quần áo họ mặc thường thấm các vết hay cản trở việc tự chữa lành của vết nghĩ/ cảm xúc tiêu cực xuất hiện nhiều chẳng hạn như khí sắc trầm hoặc hay lo âu và suy ngẫm lặp đi lặp lại về hành vi tự hại….Tránh né hoặc miễn cưỡng tham gia các hoạt động có thể làm lộ vết thương cơ chữa về chấn thương của mình khi vô tình để lộ và người khác hỏi về nguyên nhân của vết đổi cân nặng cơ thể nhanh chóng tăng cân/ sụt cân nghiêm trọng.Thường xuyên lạm dụng rượu, thuốc và chất kích thể có thái độ cáu gắt, khó chịu khi bị đụng chạm vào cơ chế hoặc gặp khó khăn trong các kỹ năng xã hội và tạo mối quan hệ với mọi được ở một mình hoặc tự cô lập bản thân…Lời KếtHãy nhớ rằng, không phải lúc nào tất cả những hành vi hay các yếu tố rủi ro kể trên đều có thể dẫn đến việc cá nhân thực hiện hành vi tự hại. Bản chất, dấu hiệu, và ý nghĩa của việc tự hại có thể khác nhau rất nhiều ở mỗi người. Vì vậy, việc tìm hiểu về “tự hại” giúp chúng ta có góc nhìn khách quan hơn để cảm thông và hỗ trợ vấn đề kịp thời. Biên tập Hương Lê Thiết kế El EiNguồn tham khảo[1] Cipriano A, Cella S, Cotrufo P. Nonsuicidal self-injury A systematic review. Frontiers in psychology. 2017 Nov 8;81946.[2] Alison Wood. Self-harm in adolescents. Advances in psychiatric treatment 2009, vol. 15, 434–441. [3] Gail Hornor, RNC, DNP, CPNP. Nonsuicidal Self-Injury. Journal of Pediatric Health Care. 2016. Volume 30. Number 3. [4] Klonsky ED The functions of deliberate self-injury A review of the evidence. Clin Psychol Rev 2007, 27226-239.[5] John Peterson, MD, Stacey Freedenthal, PhD, Christopher Sheldon, PhD, and Randy Andersen, LCSW. Nonsuicidal Self injury in Adolescents. Psychiatry Edgmont. 2008 Nov; 511 20–26. [6] Nock MK Self-injury. Ann Rev Clin Psychol 2010, 6 Andover MS, Gibb BE Non-suicidal self-injury, attempted suicide, and suicidal intent among psychiatric inpatients. Psychiatry Res 2010, 178101-105.[8] Muehlenkamp JJ, Kerr PK Untangling the self-harm web How nonsuicidal self-injury and suicide attempts differ. Prev Res 2010, 178-10.[9] Whitlock J, Muehlenkamp JJ, Purington A, Eckenrode J, et al Non-suicidal self-injury as a gateway to suicide in young adults., Manuscript under review.[10] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan.[11] American Psychiatric Association. 2013. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 5th ed.. Psychiatric Association APA 1994. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 4th ed. DSM-IV, Washington DC American Psychiatric Association.[13]Aine M. Butler and Kevin Malone. Attempted suicide v. non-suicidal self-injury behaviour, syndrome or diagnosis?. The British Journal of Psychiatry 2013. 202, 324– Konrad Bresin. Gender differences in the prevalence of nonsuicidal self-injury A meta-analysis. 2010.[15] Klonsky, E. D., & Lewis, S. P. 2014. Assessment of nonsuicidal self-injury. In M. K. Nock Ed., The Oxford handbook of suicide and self-injury pp. 337–351. Oxford University Press. [16] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan.
hành vi của trẻ